Mitsubishi là tập đoàn của các công ty công nghiệp Nhật là một trong những tập đoàn lớn nhâ't thế giới. Tập đoàn Mitsubishi là một keiretsu, một tập đoàn gồm nhiều công ty liên kết với nhau trong đó các công ty này độc lập về mặt pháp lí nhưng có nhiều quan hệ chồng chéo và dành cho nhau những quan hệ kinh doanh riêng. Mitsubishi theo tiếng Nhật là Ba viên kim cương.
Các thành viên lớn nhất của Mitsubishi bao gồm Mitsubishi Corporation, Mitsubishi Heavy Industries, Ltd., Mitsubishi Motors Corporation, và Mitsubishi Electric Corporation. Mitsubishi Corporation hoạt động trong rất nhiều ngành công nghiệp: viễn thông, hàng không vũ trụ, xăng dầu, luyện kim, chế tạo máy, hoá chất, dệt và may mặc. Mitsubishi Heavy Industries sản xuất rất nhiều sản phẩm của công nghiệp chế tạo, bao gồm tàu biển, sản phẩm thép, máy động lực, máy giao thông, máy in, máy bay, tên lửa, ngư lôi, và các hệ thống làm lạnh và điều hoà nhiệt độ. Mitsubishi Motors, một trong những nhà sản xuất ô tô lớn nhất Nhật Bản, sản xuất xe du lịch, máy kéo, xe buýt và nhiều loại xe tải khác. Mitsubishi Electric sản xuất ra một khối lượng khổng lồ các sản phẩm điện, bao gồm máy tính và các thiết bị ngoại vi của nó, ti vi, máy quay videocassette, dụng cụ làm bếp, các hệ thống màn hình rộng và các thiết bị bán dẫn. Mitsubishi Electric cũng chế tạo vệ tinh nhân tạo, radar và các hệ thống dẫn đường, máy phát điện, xe lửa điện và robot công nghiệp. Các công ty nổi tiếng khác của tập đoàn Mitsubishi là ngân hàng Mitsubishi, một trong nhừng ngân hàng lớn nhất của Nhật Bản; Nikon Corporation, một nhà sản xuất máy quay cameras và các dụng cụ quang học và công ty Kirin Brewery Company, Ltd., một nhà sản xuất bia lớn nhất Nhật Bản.
Mitsubishi được manh nha hình thành từ năm 1870, khi ông Yataro Iwasaki thuê ba chiếc tàu để thành lập công ti tàu biển gọi là Tsukomo Shokai. Năm 1875, công ty này đổi tên thành công ty Mitsubishi Mail Steamship. Trong những năm 1880, Iwasaki đa dạng hoá công ty bằng việc mua các mỏ than và thuê một xưởng để đóng tàu. Trong những năm 1920 và 1930, công ty này mở rộng sang một số ngành công nghiệp khác như hoá dầu, năng lượng. Vào đầu những năm 1940 nó là một conglomerates lớn nhất Nhật Bản.
Trong những năm chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), Mitsubishi chê tạo máy bay, tàu biển và chất nổ cho quân đội Nhật. Sau chiến tranh, quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản ra lệnh giải tán Mitsubishi và các conglomerates khác của Nhật Bản. Khi lính Mĩ rút đi, chính phủ Nhật khuyên khích các conglomerates hợp nhất lại. Năm 1964, ba công ty lớn nhất của Mitsubishi khôi phục lại dưới tên gọi Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi (Mitsubishi Heavy Industries, Ltd). Năm 1970, Mitsubishi Heavy Industries chuyến bộ phận sản xuất xe ca của nó thành một công ty phụ thuộc gọi 1 ầ Mitsubishi Motors. Một năm sau công ty Chrysler mua 15% Mitsubishi Motors, và bắt đầu một mối quan hệ theo chiều dọc giữa hai công ty này. Chẳng hạn, vào năm 1970, Chrysler tiêu thụ tại Hoa Kì các loại xe Dodge Colt và Plymouth Arrow do Mitsubishi sản xuất.
Từ năm 1982, Mitsubishi Motors bắt đầu xuất hiện trên thị trường ôtô ở Hoa Kì dưới tên gọi của chính mình. Ba năm sau Mitsubishi và Chrysler thành lập một công ty kinh doanh ở Hoa Kì tên là Diamond-Star Motors, một công ty sản xuất nhiều loại xe ca như Laser, Eclipse, Eagle Talon, Mirage, and Galant. Năml991 Mitsubishi mua cổ phần của Chrysler trong Diamond-Star.